Dược thiện cho người bị di chứng tai biến mạch máu não

Gửi lúc 15:19' 02/05/2013

Trong Đông y, di chứng tai biến mạch máu não được trị liệu bằng nhiều biện pháp kết hợp (theo quan điểm “chỉnh thể thi trị”), trong đó có việc sử dụng các món ăn - bài thuốc.

 



1. Thể khí hư huyết ứ : Bị bệnh lâu ngày, liệt bại hoặc tê bì nửa người, cơ thể mỏi mệt, ăn kém, nhiều lúc có cảm giác như thiếu không khí để thở, sắc mặt trắng nhợt, hay vã mồ hôi, chất lưỡi nhợt tối, có những điểm ứ huyết, tĩnh mạch dưới lưỡi giãn to.

- Thịt thỏ 250 g, hoàng kỳ 60 g, xuyên khung 10 g, gừng tươi 4 lát. Thịt thỏ rửa sạch, loại bỏ mỡ, thái miếng; xuyên khung và hoàng kỳ rửa sạch. Tất cả cho vào nồi hầm chừng 2 giờ cho thật nhừ, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, thường 2 ngày làm 1 lần. Công dụng: ích khí hoạt huyết, thông kinh lạc.


- Đẳng sâm 15 g, đương quy 15 g, lươn 500 g. Các vị thuốc cho vào túi vải buộc kín miệng; lươn làm sạch, cắt khúc. Tất cả cho vào nồi cùng với các gia vị như hành củ, gừng tươi... rồi hầm lửa nhỏ chừng 1 giờ cho nhừ. Nêm đủ mắm, muối, chia ăn vài lần trong ngày, thường 2 ngày làm 1 lần, 15 lần là một liệu trình. Công dụng: ích khí hoạt huyết, thông kinh lạc.

- Đẳng sâm, đào nhân, trà mạn mỗi thứ 15 g, sấy khô, tán vụn, trộn đều, mỗi lần lấy 3 g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Công dụng: bổ khí, hoạt huyết, hoá ứ, thông kinh mạch.

- Tôm nõn 200 g, hoàng kỳ 50 g. Đem hoàng kỳ sắc kỹ lấy nước rồi cho tôm nõn vào nấu thành canh, chế thêm gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: ích khí, thông kinh, hoạt lạc.

- Hoàng kỳ 100 g, địa long khô (tẩm rượu) 30 g, hồng hoa 20 g, xích thược 20 g, đương quy 50 g, xuyên khung 10 g, đào nhân (bỏ vỏ và đầu nhọn, sao qua) 15 g, bột ngô 400 g, bột mì 100 g, đường trắng lượng vừa đủ. Hoàng kỳ, hồng hoa, đương quy, xích thược và xuyên khung đem sắc kỹ lấy nước. Địa long tán thành bột, trộn đều với đường trắng, bột ngô và bột mì rồi cho nước vào nhào kỹ, nặn thành những chiếc bánh nhỏ, đặt đào nhân lên trên, bỏ vào lò nướng chín là được, mỗi ngày ăn 2 lần, mỗi lần 2 cái. Công dụng: ích khí hoạt huyết, thông kinh lạc.

2. Thể can thận suy hư : Liệt nửa người, gân mạch co quắp, duỗi khớp khó khăn, lưng đau gối mỏi, đầu choáng mắt hoa, tai ù tai điếc, tinh thần trì trệ, quên nhiều, chất lưỡi đỏ, rêu mỏng, đại tiện không thông thoáng…

- Hoàng kỳ 30 g, đại táo 10 quả, đương quy 10 g, kỷ tử 10 g, thịt lợn nạc 100 g. Thịt lợn rửa sạch, thái miếng. Các vị thuốc rửa sạch, cho vào nồi hầm cùng với thịt lợn thật nhừ, bỏ bã hoàng kỳ và đương quy, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, có thể dùng liên tục trong 1 tháng. Công dụng: tư bổ can thận, ích khí.

- Đỗ trọng 30 g, ngưu tất 15 g, xương sống lợn 500 g, đại táo 4 quả. Đại táo bỏ hạt, đỗ trọng và ngưu tất rửa sạch, xương lợn chặt miếng, trần qua nước sôi cho hết huyết dịch, tất cả cho vào nồi hầm kỹ chừng 2-3 giờ, chế đủ gia vị, dùng làm canh ăn hàng ngày. Công dụng: bổ can thận, làm mạnh gân cốt.

- Rùa 3 con (mỗi con nặng chừng 250 g), đường phèn lượng vừa đủ. Cắt tiết rùa cho vào bát, bỏ đường phèn và một chút nước, quấy đều rồi cho lên bếp đun cách thuỷ, ăn nóng, mỗi ngày 1 lần, 7 lần là một liệu trình. Công dụng: tư âm, dưỡng huyết, thông mạch.

- Kỷ tử 30 g, thận dê 1 quả, thịt dê 50 g, gạo tẻ 50 g. Thận dê và thịt dê rửa sạch, thái miếng, cho vào nồi cùng với kỷ tử và gạo tẻ ninh thành cháo, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày. Công dụng: bổ can thận, thông mạch.

- Kỷ tử 30 g, cúc hoa 10 g. Hai thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, u ống thay trà trong ngày. Công dụng: tư âm bổ thận, giáng áp, dùng làm nước uống hằng ngày cho bệnh nhân bị di chứng trúng phong rất tốt.

3. Thể tỳ hư đàm trệ: Liệt mềm nửa người, hình thể béo trệ, mệt mỏi như mất sức, ăn kém, chậm tiêu, sắc mặt vàng nhợt, nói khó, thường có hội chứng rối loạn lipid máu, miệng nhạt, chất lưỡi nhợt bệu, có vết hằn răng…

- Ý dĩ, bạch biển đậu, hoài sơn mỗi thứ 30 g, củ cải trắng 60 g, gạo tẻ 60 g. Củ cải rửa sạch, cắt miếng, đem nấu với ý dĩ, bạch biển đậu, hoài sơn và gạo tẻ thành cháo, chế đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày, 7 ngày là một liệu trình. Công dụng: kiện tỳ, trừ thấp.

- Nhân sâm 10 g, rau hẹ 12 g, trứng gà bỏ lòng đỏ 1 quả, gạo tẻ 50 g. Nhân sâm thái vụn, sắc kỹ lấy nước rồi cho gạo tẻ vào ninh thành cháo, khi chín bỏ lòng trắng trứng và rau hẹ vào, chế thêm gia vị, ăn nóng. Công dụng: ích khí, trừ đàm.

- Trám tươi 500 g, uất kim 250 g, bột minh phàn 100 g, bạch cương tàm 100 g, mật ong lượng vừa đủ. Trám đập nát, bạch cương tàm tán vụn. Đầu tiên, đem trám và uất kim sắc kỹ với 1.000 ml nước trong 1 giờ rồi lọc lấy nước thứ nhất, lại cho tiếp 500 ml nước sắc cô lấy nước thứ hai. Hoà hai nước với nhau, cô lửa nhỏ cho đến khi còn 500 ml rồi cho bột cương tàm, bột minh phàn và mật ong vào cô thành cao, để nguội, đựng trong lọ kín dùng dần, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 10 ml. Công dụng: trừ phong, hoá đàm, khai kết.

- Thiên ma 10 g, óc lợn 1 bộ. Thiên ma thái vụn, cho vào bát sứ cùng với óc lợn rồi đem hấp cách thuỷ cho chín, chế thêm gia vị, ăn nóng. Công dụng: trừ phong, khai khiếu, thông mạch. Những người bị rối loạn lipid máu không nên dùng bài thuốc này.

St