Phát hiện và dự phòng bệnh trầm cảm

Gửi lúc 16:51' 02/05/2013

Trầm cảm là rối loạn về cảm xúc. Cảm xúc hiểu theo lâm sàng tâm thần học là thái độ của mỗi người trước những kích thích xảy ra từ bên ngoài cơ thể, hoặc từ bên trong cơ thể.


Trầm cảm gây ra sự suy giảm chức năng xã hội và nghề nghiệp ở hầu hết các bệnh nhân. Người ta ước tính, tỷ lệ suy giảm các chức năng do rối loạn cảm xúc bằng tất cả những suy giảm chức năng do các bệnh mãn tính của cơ thể cộng lại.

Bệnh sinh của trầm cảm

Có thể chia trầm cảm làm ba nhóm:

Trầm cảm nội sinh: Do sự thay đổi hoạt lực của các chất dẫn truyền thần kinh tại não mà ngày nay người ta hướng nhiều đến giảm Serotonin ở thần kinh trung ương.

Trầm cảm ngoại sinh (Còn gọi là trầm cảm tâm căn): Xuất hiện sau các chấn thương tâm lý, thất tình, ly dị, thi trượt, mất việc làm, làm ăn thua lỗ, người thân mất, con cái hư hỏng…

Trầm cảm thực tổn: Do tình trạng bệnh lý cơ thể, gây ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp lên hoạt động chức năng của não như các tổn thương tại não (u não, chấn thương sọ não), bệnh nội tiết (suy chức năng tuyến giáp).

Dù do nguyên nhân nào đi nữa thì hậu quả của trầm cảm cũng rất phức tạp và nghiêm trọng như: Chán đời, nghiện rượu, nghiện ma túy, mất khả năng lao động, tan vỡ cuộc sống gia đình, đặc biệt là tự sát.

Biểu hiện của bệnh trầm cảm


Điển hình là tình trạng buồn rầu, ủ rủ suốt cả ngày và kéo dài từ ngày này sang ngày khác. Người bệnh luôn có cảm giác mệt mỏi, uể oải, cảm giác như vô lực, không còn sức sống, thậm chí nhấc chân tay cũng cảm thấy mệt mỏi. Người bệnh giảm quan tâm đến những sự việc xảy ra ở xung quanh. Các thói quen sở thích trước đây cũng không làm cho người bệnh vui hơn.

Một số bệnh nhân cho rằng mình có nhiều lỗi lầm, nhiều khuyết điểm không thể tha thứ được, hoặc mình đang bị người khác theo dõi, truy hại dẫn đến có ý nghĩ và hành vi tự sát. Ngoài ra trầm cảm còn biểu hiện bằng các triệu chứng sinh học như rối loạn giấc ngủ (hay gặp nhất là mất ngủ), mất cảm giác ngon miệng.

Ngoài ra còn có sự liên quan giữa trầm cảm với lạm dụng rượu và các chất ma túy, các chất gây nghiện. Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy có đến 1/4 số bệnh nhân trầm cảm có lạm dụng rượu.

Phương pháp điều trị

Bệnh nhân trầm cảm cần được điều trị tích cực và cho nhập viện đối với những trường hợp nặng để đề phòng tự sát. Có những phương pháp để điều trị trầm cảm như: Tâm lý liệu pháp, sử dụng thuốc chống trầm cảm và các liệu pháp tái thích ứng xã hội. Ngày nay, do tiến bộ của ngành Dược nên có nhiều thuốc chống trầm cảm tỏ ra rất có hiệu quả trong điều trị như: Amitriphilin, anafranil, stablon… Tuy nhiên việc lựa chọn loại thuốc nào, liều lượng và thời gian dùng phụ thuộc vào mỗi cá thể.

Bệnh nhân chỉ dùng thuốc khi có chỉ định của bác sĩ chuyên khoa. Việc điều trị trầm cảm đòi hỏi phải kiên trì, lâu dài và theo từng giai đoạn của bệnh, thời gian điều trị tối thiểu từ 3 đến 6 tháng. Vì vậy, đối với những trường hợp có biểu hiện của bệnh trầm cảm cần đưa đến khoa tâm thần để được chẩn đoán và có kế hoạch điều trị đúng đắn. Tuy nhiên sự phối hợp chặt chẽ giữa ngành tâm thần với cộng đồng và các thành viên trong gia đình người bệnh là yếu tố quan trọng, trong quá trình điều trị bệnh trầm cảm để đạt hiệu quả cao.

 

St