Chẩn đoán và xét nghiệm táo bón

Gửi lúc 09:42' 27/04/2013

Một bệnh sử và khám lâm sàng rõ ràng rất quan trọng ở tất cả các bệnh nhân táo bón. Có vài xét nghiệm có thể đánh giá táo bón. Hầu hết các bệnh nhân chỉ cần vài xét nghiệm cơ bản. Những xét nghiệm khác chỉ dành cho những người táo bón nặng hay táo bón không dễ dàng đáp ứng với điều trị.

Bệnh sử:


Hỏi bệnh sử kỹ lưỡng ở bệnh nhân táo bón rất cần thiết vì nhiều lẽ, nhưng đặc biệt nó cho phép thầy thuốc xác định được táo bón. Rồi những điều này sẽ hướng đến chẩn đoán và điều trị. Ví dụ, nếu đi tiêu đau, bác sĩ biết tìm kiếm các vấn đề hậu môn như hẹp cơ vòng hậu môn hay nứt hậu môn. Nếu vấn đề là phân nhỏ, có thể là do thiếu chất xơ trong chế độ ăn. Nếu bệnh nhân phải ráng sức (rặn) nhiều, có thể vấn đề là rối loạn sàn chậu.

Bệnh sử cũng khám phá tình trạng dùng thuốc và các bệnh lý gây táo bón. Trong những trường hợp này, có thể thay đổi thuốc và điều trị bệnh phát hiện được.

Khám lâm sàng:

Khám lâm sàng có thể biết được bệnh lý có thể gây táo bón (như xơ cứng bì chẳng hạn). Khám trực tràng bằng ngón tay có thể khám phá ra hẹp cơ vòng hậu môn làm đi tiêu khó khăn. Nếu sờ thấy đại tràng đầy phân qua thành bụng sẽ gợi ý tình trạng táo bón nặng. Phân trong trực tràng gợi ý vấn đề của hậu môn, đại tràng, hay cơ sàn chậu.

Các xét nghiệm về máu:

Xét nghiệm máu thích hợp để đánh giá bệnh nhân táo bón. Đặc biệt hơn, xét nghiệm máu tìm hormon giáp (để phát hiện thiểu năng giáp) hay calci (để phát hiện tăng quá nhiều lượng hormon cận giáp) có thể có ích.

X quang bụng:

Lượng lớn phân trong đại tràng thường có thể thấy được trên phim X quang bụng đơn giản. Phân thấy được càng nhiều thì táo bón càng nặng.

X quang cản quang:


Thụt tháo bằng Barium (đường tiêu hoá dưới) là chụp X quang với barium lỏng được đổ đầy vào trực tràng và đại tràng qua hậu môn. Bari sẽ vẽ hình đại tràng trên phim X quang và xác định giải phẫu bình thường hay bất thường của trực tràng và đại tràng. Có thể phát hiện ra khối u và chít hẹp trong các nguyên nhân gây táo bón qua xét nghiệm này.

Các khảo sát đường đi đại tràng:


Các khảo sát ống đại tràng là X quang bụng thường xác định thời gian giữ thức ăn di chuyển qua ruột. Để nghiên cứu sự di chuyển, người bệnh phải uống viên nang trong một hoặc vài ngày. Trong viên nang có nhiều mảnh plastic có thể nhìn thấy trên phim X quang. Vỏ bọc gelatin được hoà tan và giải phóng các mảnh plastic vào ruột. Các mảnh này sẽ di chuyển (như khi tiêu hoá thức ăn) qua ruột non và vào đại tràng. Sau 5-7 ngày, chụp X quang bụng và đếm các mảnh plastic trong các phần đại tràng. Sau khi đếm các mảnh có thể xác định có sự chậm trễ di chuyển trong lòng đại tràng và vị trí bị chậm. Ở những người không táo bón, tất cả các mảnh palstic đều được thải ra ngoài trong phân và không còn trong đại tràng. Khi những mảnh này còn khắp đại tràng gợi ý rằng cơ hoặc thần kinh cả đại tràng không hoạt động, điển hình của bệnh đại tràng vô lực. Nếu những mảnh này tích tụ ở trực tràng sẽ gợi ý rối loạn chức năng sàn chậu.

Ghi hình khi đi tiêu:


Ghi hình khi đi tiêu là xem xét sự biến đổi barium thụt tháo. Trong thủ thuật này, một lượng lớn barium nhão được đặt vào trong đại tràng bệnh nhân qua đuờng hậu môn. Sau đó sẽ chụp X quang khi bệnh nhân đi tiêu ra barium. Barium phát họa ra hình ảnh trực tràng và hậu môn một cách rõ ràng và mô tả những thay đổi cơ sàn chậu xảy ra trong quá trình đi tiêu. Hơn nữa, ghi hình trực tràng khi đi tiêu giúp khám quá trình đi tiêu và cung cấp những thông tin bất thường về giải phẫu của đại tràng, cơ sàn chậu trong khi đi tiêu.

Các khảo sát chuyển động trực tràng hậu môn:


Khảo sát chuyển động trực tràng hậu môn bổ sung cho ghi hình trực tràng khi đi tiêu cung cấp các đánh giá chức năng cơ và thần kinh của hậu môn, trực tràng. Để nghiên cứu chuyển động hậu môn trực tràng, một ống mềm đường kính khoảng một phần tám inch được đặt vào trực tràng qua hậu môn. Bộ phận cảm biến trong ống sẽ đo áp lực gây ra do cơ hậu môn trực tràng. Khi đặt ống vào vị trí, bệnh nhân sẽ làm vài động tác đơn giản như tự ý co thắt cơ vòng hậu môn. Khảo sát chuyển động hậu môn trực tràng có thể giúp xác định cơ hậu môn và trực tràng có hoạt động bình thường hay không. Khi chức năng những cơ này suy yếu, đường di chuyển phân bị hẹp do đó gây nên tình trạng tương tự như rối loạn chức năng sàn chậu.

Khảo sát chuyển động đại tràng:

Khảo sát chuyển động đại tràng tương tự khảo sát chuyển động trực tràng hậu môn ở nhiều khía cạnh. Một ống mềm rất dài, hẹp (đường kính một phần tám inch) được đặt qua hậu môn và qua một phần hoặc cả đại tràng trong thủ thuật có tên gọi là nội soi đại tràng. Bộ phận cảm biến trong ống sẽ đo áp lực co cơ đại tràng. Sự co này là kết quả của hoạt động phối hợp giữa thần kinh và cơ đại tràng. Nếu hoạt động cơ và thần kinh bất thường thì áp lực đại tràng sẽ bất thường. Khảo sát chuyển động đại tràng hữu dụng nhất trong xác định đại tràng vô lực. Những khảo sát này được coi như nghiên cứu phân, nhưng có ích trong những quyết định điều trị bệnh nhân táo bón nặng.

 

St