Mạch môn đông trị ho, bổ phổi

Gửi lúc 10:47' 10/06/2024

Mạch môn đông còn có tên là mạch đông, cây lan tiên.

Tên khoa học Ophiopogon japonicus Wall.

Thuộc họ Hành tỏi Liliaceae.

Người ta dùng rễ củ phơi hay sấy khô (Radix Ophiopogoni) của cây mạch môn đông. Vì lá giống lá lúa mạch, về mùa đông lá vẫn xanh tươi nên gọi là mạch đông.

Mô tả cây

Mạch môn đông là một loại cỏ sống lâu năm, cao 10 - 40cm, rễ chùm, trên rễ có những chỗ phát triển thành củ mẫm. Lá mọc từ gốc, hẹp dài, như lá lúa mạch dài 15 - 40cm, rộng 1 - 4mm, phía cuống hơi có bẹ, mép lá hơi có răng cưa. Cán mang hoa dài 10 - 20cm, hoa màu xanh nhạt, cuống 3 - 5mm, tụ thành 1 - 3 hoa ở kẽ các lá bắc trắng nhạt. Quả mọng màu tím đen nhạt, đường kính 6mm, có 1 - 2 hạt.

Phân bố thu hái và chế biến

Mọc hoang và được trồng ở Việt Nam để lấy củ dùng làm thuốc, nhiều nhất ở Phùng, Ninh Hiệp (Hà Nội), Nghĩa Trai (Hưng Yên). Thường hái vào tháng 6 - 7 ở những cây đã được 2 - 3 năm. Chọn những củ già, cắt bỏ sạch rễ con, rửa sạch đất, củ to trên 6mm bổ làm đôi, củ nhỏ để nguyên phơi khô tước bỏ lõi trước khi dùng. Có khi hái về, dùng móng tay rạch củ, tước bỏ lõi, rang với gạo cho đến khi gạo có màu vàng nhạt, bỏ gạo lấy mạch môn mà dùng. Củ mạch môn hình thoi, màu vàng nhạt, hơi trong, dài 10 - 15mm. Mùi đặc biệt, vị ngọt.

Công dụng và liều dùng

Còn ở trong phạm vi nhân dân. Nhưng là một vị thuốc rất thông dụng, làm thuốc ho long đàm, thuốc bổ (bệnh phổi, gầy còm). Còn dùng chữa thiếu sữa, lợi tiểu, chữa sốt khát nước. Ngày dùng từ 6 - 20g dưới dạng thuốc sắc.

Theo tài liệu cổ, mạch môn có vị ngọt, hơi đắng tính hơi hàn, vào 3 kinh tâm, phế và vị. Có tác dụng thanh tâm, nhuận phế, dưỡng vị sinh tân, hóa đờm, chỉ ho, dùng chữa hư lao, ho, thổ huyết, ho ra máu, miệng khô khát, bệnh nhiệt tân dịch khô. Những người tỳ vị hư hàn, đại tiện lỏng không dùng được.

Bài thuốc có mạch môn đông

Nhuận phế dịu ho:

Bài 1: mạch môn 20g, thạch cao 20g, tang diệp 12g, cam thảo 4g, hồ ma nhân 12g, a giao 12g, hạnh nhân 12g, đảng sâm 12g, tỳ bà diệp 12g. Sắc uống. Trị táo nhiệt tổn thương đến phổi, ho nặng thành suyễn, đau họng.

Bài 2: mạch môn 20g, bán hạ 6g, đảng sâm 12g, cam thảo 4g, gạo tẻ 20g, đại táo 4 quả. Sắc uống. Trị chứng phế nhiệt tổn thương phần âm, họng khô, miệng khát, lưỡi đỏ, phổi yếu, ho ra nước bọt.

Thanh tâm trừ phiền:

Bài 1: mạch môn đông 20g, sinh địa 20g, huyền sâm 12g. Sắc uống. Trị chứng tân dịch kém, táo bón.

Bài 2: mạch môn 9g, kim ngân hoa 9g, cát cánh 6g, cam thảo 6g. Cho trong ấm, đổ nước sôi hãm như pha trà. Dùng cho các trường hợp đau sưng họng, họng khô miệng khát.

Món ăn bài thuốc có mạch môn:

Bài 1. Cháo mạch môn: mạch môn tươi 50g, sinh địa tươi 50g, gừng tươi 20g. Cả ba thứ này ép lấy nước; gạo tẻ 100g, ý dĩ 50g cùng nấu cháo. Khi gần được cháo cho 3 thứ nước ép trên vào khuấy đều thành dạng cháo loãng. Dùng cho các trường hợp nhiễm độc thai nghén nôn oẹ không ăn uống được.

Bài 2. Mạch môn hầm tim lợn: mạch môn 20g, hạt sen 15g, tim lợn 1 quả. Tim lợn rửa sạch thái lát; tất cả cùng được nấu nhừ, thêm gia vị. Dùng cho người cao tuổi kích ứng mất ngủ.

Bài 3. Sữa mạch môn ô mai: mạch môn 20g, ô mai 12g, sữa bò 30ml. Mạch môn, ô mai cùng sắc lấy nước bỏ bã, thêm sữa, khuấy đều. Dùng cho các trường hợp đái tháo đường, khô miệng khó nuốt, nuốt đau, khát nước.

Kiêng kỵ: Ho do ngoại cảm phong hàn, đàm thấp, đầy trướng bụng, tiêu chảy không dùng.                

Chú thích: Ngoài rễ của cây mạch môn đông, ta còn dùng rễ củ phơi khô của cây tóc tiên Liriope spicata Lour cùng họ. Đó là một loại cỏ sống lâu năm, thân rễ ngắn, dày, rễ chùm, lá hẹp dài mọc từ gốc, dài 30cm, rộng 4 - 7mm cọng mang ho thường ngắn hơn lá, hoa màu hơi tím, hợp thành xim 3 - 5 hoa. Quả mọng, màu xanh tím. Cùng một công dụng nhưng hiệu lực không bằng.