Cỏ tranh

Gửi lúc 16:27' 03/06/2022

Tên khác
Bạch mao căn, Cỏ tranh săng, Bạch mao căn, Nhả cà, Lạc cà (Tày), Gan (Dao), Día (K’Dong)

Tên khoa học
Imperata cylindrica (L.) P. Beauv. var. cylindrica

Họ
Lúa (Poaceae)

Tên nước ngoài
Alang-grass, Alang-alang, Bedding grass (Anh), Herbe à paillote (Pháp)

Công năng, chủ trị: Lương huyết, chỉ huyết, thanh nhiệt, lợi tiểu, giảm đau. Chữa phiền khát, tiểu tiện khó, tiểu ít, tiểu buốt, tiểu ra máu, ho ra máu, chảy máu cam do huyết nhiệt, phù thũng do viêm cầu thận cấp, hoàng đản.

Cỏ tranh còn gọi là cỏ tranh răng, bạch mao căn, Nhả cà, Lạc cà (Tày), Gan (Dao), Día (K’Dong)

Mô tả

Dạng sống cỏ sống dai, cao 0,9-1,55 m. Thân khí sinh dài 0,5-1,2 m, nhẵn, mấu có nhiều lông mềm màu trắng dài khoảng 3-4 mm, tiết diện bầu dục, tủy bị hủy. Thân rễ màu trắng, tiết diện tròn, đường kính 2-3 mm, nhiều lóng, mấu có vảy và nhiều rễ phụ. Lá đơn, dạng dải thuôn dài đầu nhọn hình ngọn giáo hoặc mũi mác, dài 60-85 cm, rộng 0,7-1,8 cm; mặt trên ráp có lông nhiều ở mép lá, mặt dưới nhẵn. Lá non màu xanh nhạt, cuộn lại; lá già màu xanh đậm. Gân lá song song, gân chính nổi rõ ở mặt dưới. Bẹ lá cứng, hình ống xẻ dọc, ôm thân, phần dưới màu trắng, phần giữa có sọc hồng tím, phần trên màu xanh, dài 18-32 cm; mép bẹ có rìa mảnh; lưỡi nhỏ là lằn lông trắng, dài 1-3 mm. Cụm hoa gié-hoa tạo thành chùy màu trắng bạc dài 20-25 cm trên trục hình trụ ở ngọn thân dài 24-35 cm. Gié-hoa đứng áp sát trục phát hoa, non ở gốc già ở ngọn, có 2-4 hoa; không có dĩnh. Hoa trần, lưỡng tính, dài 3-5 cm; cuống hoa màu xanh nhạt, hình trụ dài 2–6 mm, nhiều lông trắng bạc dài 9-13 mm ở đỉnh. Trấu 2, kích thước gần bằng nhau. Trấu trên hình dải hẹp dài 3-3,5 mm, mềm, màu trắng trong, đầu nhọn, mép và mặt lưng có nhiều lông, có nhiều gân xanh. Trấu dưới giống trấu trên. Trấu phụ 2, gần bằng nhau, dạng màng mỏng, màu trắng trong như thủy tinh, đầu tù răng cưa có nhiều lông tua ở đầu, dài 1,5-2,0 mm, rộng 0,5-0,7 mm. Nhị 2, rời, đều; chỉ nhị màu trắng dạng sợi mảnh, lúc hoa nở chỉ nhị dài ra đưa bao phấn ra ngoài, dài 3-4 mm; bao phấn hình chữ nhật thuôn ở đầu, dài 3-4 mm, 2 ô, nứt dọc, hướng nội, đính giữa, màu vàng lúc non, màu nâu khi nứt; hạt phấn hình cầu có nhiều lõm sâu, đường kính 20-27,5 µm. Bộ nhụy bầu 1 ô, hình trứng, dài gần 1 mm; 1 vòi nhụy màu trắng, dài 3,5-4,5 mm; 2 đầu nhụy màu tím nâu, dài 2-2,5 mm, nhiều lông.

Đặc điểm giải phẫu

Thân khí sinh

Vi phẫu hình bầu dục. Biểu bì tế bào hình chữ nhật, kích thước nhỏ, hóa mô cứng. Mô cứng 1-2 lớp xếp thành vòng liên tục, tế bào hình chữ nhật đứng, kích thước lớn hơn tế bào biểu bì. Mô mềm vỏ đạo gồm 5-7 lớp tế bào hình tròn hoặc gần tròn, kích thước không đều, to hơn tế bào biểu bì rất nhiều, có nhiều khuyết. Vòng mô cứng 1-3 lớp tế bào hình đa giác vách mỏng, kích thước khá đều nhau. Nhiều bó dẫn sắp xếp lộn xộn từ bên ngoài vòng mô cứng vào trong mô mềm, libe ở ngoài gỗ ở trong, đôi khi 3-4 bó nằm cạnh nhau thành cụm. Mỗi bó có libe tạo thành cụm nhỏ, tế bào đa giác vách méo mó xếp lộn xộn; 1-2 mạch tiền mộc hình tròn nằm trong vùng mô mềm vách cellulose, có thể có khuyết ở cực gỗ; 1-3 mạch hậu mộc to, hình tròn, ở 2 bên libe hay phía trên tiền mộc. Bao quanh mỗi bó dẫn là vòng mô cứng gồm 1-3 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ. Mô mềm tủy đạo tế bào hình tròn hoặc đa giác gần tròn, không đều. Tủy bị hủy tạo khuyết to chiếm khoảng 1/3 chiều dày vi phẫu.

Thân rễ

Vi phẫu tiết diện tròn, lõm ở 1 góc. Biểu bì tế bào hình chữ nhật, kích thước nhỏ. Mô cứng 1-2 lớp tế bào hình đa giác dài xếp thành vòng liên tục. Mô mềm vỏ đạo 13-15 lớp tế bào hình tròn hoặc đa giác gần tròn; có bó vết lá trong mô mềm vỏ. Nội bì hình móng ngựa, thấy rõ ống trao đổi. Trụ bì 3-5 lớp tế bào hình đa giác, kích thước nhỏ, vách dày hóa mô cứng thành vòng. Nhiều bó dẫn xếp không thứ tự từ trụ bì vào trong mô mềm tủy, các bó bên trong kích thước hơi lớn hơn. Bó dẫn gồm cụm libe với mạch rây to vách méo mó chồng lên 1-2 mạch hậu mộc to, hình tròn hoặc gần tròn; mạch tiền mộc một hoặc không có. Bao quanh bó dẫn là vòng mô cứng gồm 1-3 lớp tế bào hình đa giác. Mô mềm tủy đạo tế bào hình tròn hoặc hơi bầu dục, kích thước không đều. Vùng tủy chiếm hơn 1/3 đường kính vi phẫu.

Gân giữa: Biểu bì trên và biểu bì dưới hóa mô cứng, tế bào hình chữ nhật nhỏ; lớp cutin dày, rải rác có lỗ khí và lông che chở đơn bào ngắn. Mô cứng 2-3 lớp tế bào hình đa giác, vách dày, kích thước nhỏ; ở trên biểu bì dưới mô cứng thường tạo thành cụm 8 – 9 lớp tế bào ở vị trí các bó dẫn. Mô mềm đạo gồm 9-10 lớp tế bào hình đa giác to. Nhiều bó dẫn to nhỏ xếp xen kẽ nhau trên một hàng gần sát biểu bì dưới. Mỗi bó dẫn gồm gỗ ở trên, libe ở dưới; mạch tiền và hậu mộc hình tròn, 2 mạch hậu mộc ở hai bên mạch tiền mộc; libe tế bào hình đa giác, xếp lộn xộn thành cụm. Bao bên ngoài bó libe gỗ là 2 vòng mô, vòng mô cứng bên trong gồm 1-2 lớp tế bào hình đa giác, vòng mô mềm bên ngoài gồm 1 lớp tế bào hình đa giác to. Một số bó lớn tiền mộc bị hủy để lại các khuyết.
Phiến lá: Tế bào biểu bì trên hình chữ nhật, có các tế bào bọt kích thước lớn; tế bào biểu bì dưới kích thước lớn hơn tế bào biểu bì trên, cả 2 biểu bì đều có lỗ khí và ít lông che chở đơn bào ngắn. Mô cứng tạo thành cụm phía trên và dưới các bó dẫn lớn, gồm 3-5 lớp tế bào hình đa giác nhỏ, rất vách dày. Mô mềm khuyết tế bào vách uốn lượn. Nhiều bó dẫn kích thước không đều xếp xen kẽ nhau, các bó lớn xen kẽ với tế bào hình bọt và nối với hai lớp biểu bì bởi 2 cụm mô cứng, cấu tạo giống như bó dẫn ở gân lá. Xung quanh các bó dẫn là các tế bào mô mềm hình thuôn dài, chứa các hạt lục lạp.

Đặc điểm bột dược liệu

Bột màu trắng ngà, có nhiều sợi. Mảnh biểu bì tế bào hình chữ nhật dài vách dày mang lỗ khí. Sợi rời hoặc tập trung thành cụm, có 3 loại: loại sợi dài, vách dày, khoang hẹp và có ống trao đổi rõ; loại sợi có vách dày, khoang rộng, có lỗ trao đổi. Tế bào mô cứng có hình dạng khác nhau: hình đa giác, hình thuôn dài một đầu nhọn một đầu tù hoặc hai đầu nhọn. Mảnh mạch điểm, mạch xoắn, mạch vạch. Mảnh mô mềm vách mỏng, tế bào hình gần tròn hoặc đa giác.

Phân bố, sinh học và sinh thái

Phân bố rộng rãi khắp các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Đại Dương, một số nơi Nam Âu. Ở Việt Nam, cỏ tranh có ở khắp nơi. Cây ưa sáng, sống dai. Mùa hoa quả: gần như quanh năm

Bộ phận dùng

Thân rễ (Rhizoma Imperatae) thường được gọi là bạch mao căn. Hoa cũng được dùng.

Thành phần hóa học

Cỏ tranh non chứa protein, Ca, N, P, vitamin C, A. Thân rễ chứa đường.

Tác dụng dược lý - Công dụng

Tác dụng dược lý

Tác dụng lợi tiểu: thí nghiệm trên thở dạng chiết bằng nước và nước sắc rễ cỏ tranh cho thẳng vào dạ dày có tác dụng lợi tiểu, dùng thuốc 4-5 ngày tác dụng lợi tiểu mức tối đa. Về cơ chế tác dụng có tác giả cho rằng tác dụng lợi tiểu của cỏ tranh có liên quan đến hàm lượng phong phú muối kali trong rễ.

Tác dụng cầm máu: nước sắc hoa cỏ tranh thí nghiệm trên thỏ bằng đường uống với liều 0,5 g/kg trong 3 ngày, thì thời gian đông máu và thời gian chảy máu của thỏ đều rút ngắn. Tác dụng này được duy trì trong vài ngày. Ngoài ra, thuốc còn có tác dụng giảm sức thẩm thấu của thành mạch, tăng cường sức đề kháng của mao quản.

Tác dụng kháng khuẩn: nước sắc rễ cỏ tranh thí nghiệm trên môi trường nuôi cấy có tác dụng ức chế trực khuẩn Shigella.

Các tác dụng khác: chất coixol có trong thân rễ có tác dụng ức chế sức co bóp của cơ vân. Chất cylindol có ảnh hưởng đến hoạt tính của men lipooxygenase, chất imperanene có tác dụng ức chế ngưng kết tiểu cầu thỏ. Ngoài ra, rễ cỏ tranh còn có tác dụng an thần, giải nhiệt, giảm đau.

Công dụng

Rễ cỏ tranh có vị ngọt tính hàn, có tác dụng thông tiểu tiện, lương huyết, chỉ huyết, thanh nhiệt.

Hoa cỏ tranh có vị ngọt, tính mát, có tác dụng cầm máu, giảm đau.

Rễ cỏ tranh được dùng chữa bệnh nhiệt phiền khát, tiểu tiện khó khăn, đái ít, đái buốt, đái ra máu, ho ra máu, chảy máu cam, phù viêm thận cấp, hen suyễn. 
Hoa cỏ tranh chữa chảy máu cam, ho ra máu, nôn ra máu, chảy máu vết thương. Liều dùng 9 – 15 g/ ngày, sắc nước uống.

Các bài thuốc đông y có vị thuốc cỏ tranh

Thuốc lợi tiểu, thanh nhiệt: Rễ cỏ tranh 50 g, râu ngô 40 g, mã đề 25 g, cúc hoa 5 g. Tất cả thái nhỏ sắc với 600 ml nước, còn 200 ml nước, uống ngày 2 -3 lần. Trẻ em dưới 14 tuổi dùng 2/3 liều người lớn.

Chữa hen suyễn: Bạch mao căn 60 g, tang bạch bì 60 g, sắc 400 ml nước còn 200 ml nước, bỏ bã, uống lúc còn nóng sau bữa ăn.

Chữa đi tiểu ra máu: Bạch mao căn, sa tiền tử, mỗi thứ 30 g, sắc nước thêm đường uống.