Sơ lược lịch sử y học cổ truyền Việt Nam

Gửi lúc 15:09' 03/06/2022

Y học cổ truyền dân tộc Việt Nam - nền y học của 54 dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, đã hình thành và phát triển trong suốt chiều dài hàng nghìn năm lao động sản xuất, đấu tranh với thiên nhiên để dựng nước và giữ nước, giao lưu với các dân tộc khác trong khu vực, nên Việt Nam có nền Y học truyền thống rất phong phú và đa dạng. Thuốc cổ truyền Việt Nam có nguồn gốc: từ thực vật, động vật và khoáng vật.

Theo nghiên cứu của nhiều ngành khoa học: mặt trời có khoảng 5 tỷ năm.

Thời đại cổ sinh cách đây 600 triệu năm.

Thời nguyên đại trung sinh cách đây 200 triệu năm, giải đất nước ta lúc đầu như mầm xương sống hình chữ  S đó là dãy núi Trường Sơn.

Thời đại Tân sinh cách đây 50 triệu năm là thời kỳ tạo đất bồi đắp hợp thành lục địa Á châu có kết cấu địa chất địa tầng có sông, núi…

Cuối thời kỳ Đệ Tam đã có vượn cao cấp cách đây 10 -  20 triệu năm. Nhiều nhà khảo cổ học Việt Nam đã chứng minh con người Việt Nam xuất hiện từ thời kỳ Canh Tân, cái nôi của loài người và cũng là cái nôi của các thuốc thảo mộc.

Do thời kỳ băng hà kéo dài Thuỷ Canh Tân đến Canh Tân. Nhưng ở nước ta nói riêng và ở Đông Nam á nói chung chỉ có mưa lớn. Sau băng hà nước biển trào lên kết hợp với khí hậu nhiệt đới gió mùa tạo điều kiện thuận lợi cho thực vật phát triển nguồn thức ăn của nhiều loại động vật trong đó có con người. Vượn ăn cỏ cây động vật để sống đồng thời cũng chọn lọc tự nhiên những động vật và cây cỏ để ăn để chữa bệnh. Vì vậy thuốc chữa bệnh được lưu truyền từ thời này sang thời khác, đời này sang đời khác và tồn tại đến nay. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, y học cổ truyền Việt Nam đã đúc kết được nhiều phương pháp phòng bệnh và chữa bệnh bằng thuốc và không dùng thuốc (châm cứu, day, bấm huyệt…) có hiệu quả. Đã phát hiện nhiều vị thuốc quí: quả giun, gừng gió, ý dĩ, xương bồ, kỳ nam, sa nhân, đậu khấu, hương phụ… được lưu truyền đến ngày nay. Cùng điểm lại một số nét sơ lược về lịch sử y học cổ truyền Việt Nam:

I. THỜI CỔ ĐẠI (TỪ ĐẦU THẾ KỶ I – THẾ KỶ III SAU CNT)

Chỉ được ghi nhận dưới hình thức kinh nghiệm và có lẽ do sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, dễ mắc các bệnh sốt rét, bệnh thời khí và bệnh nhiễm trùng đường ruột nên ngưòi Việt cổ có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng thuốc dưới dạng các thức ăn uống và trong sinh hoạt như: trầu, cau, gừng, hành, tỏi, ớt, riềng, ý dĩ, vôi, chè xanh, chè vằng và biết phòng sâu răng bằng tập tục nhuộm răng đen.

II. THỜI TRUNG ĐẠI (THẾ KỶ III – THẾ KỶ XVII SAU CN)

Dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ Trung đại dưới nền đô hộ của các triều đại Hán – Nguỵ – Tấn – Tống – Tề – Lương – Tuỳ – Đường (179 tr. CN – 938 sau CN).

Dưới ách đô hộ này, có lẽ ngưòi Việt Nam thuộc tầng lớp trên đã được giới thiệu một nền y học kinh điển thông qua các thầy thuốc đến từ Trung Quốc như Đổng Phụng (187 – 226), Lâm Thắng (479 – 501).

Trong giai đoạn này, một số dược liệu của Việt Nam đã được ghi vào Dược điển của Trung Quốc như:
– Ý dĩ, Sắn dây (Danh Y biệt lục).
– Đậu khấu (Hải Nam bản thảo – đòi Đưòng).
– Sử quân tử (Bản thảo khai bảo – đòi Tống).
– Sả (Bản thảo thập di).
– Trầu, Cau (Tô cung bản thảo).
– Hương bài, Kho qua, Bí ngô, Lưòi ươi (Bản thảo cương mục).

1. Thời nhà Ngô – Đinh – Lê – Lý (938 – 1224)

Nền y học Việt Nam, ngoài tính chất kinh nghiệm còn mang thêm tính chất tôn giáo do Đạo giáo và Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại này. Điển hình là năm 1136, thầy thuốc Nguyễn Minh Không chữa bệnh điên cho vua Lý Thần Tông bằng bùa chú.

2. Thời nhà Trần – Hổ – Hậu Lê (1225 – 1788)

Từ thời nhà Trần trở đi, Nho giáo phát triển mạnh, trong đó có Chu Văn An và Trương Hán Siêu là hai ngưòi khởi xướng phong trào chống mê tín dị đoan trong cả nước và chính lúc ấy nền y học Việt Nam mới có điều kiện vươn lên.

Song cũng vì sự gắn bó quá chặt chẽ về mặt văn hoá tư tưởng với Trung Quốc nên nền y học Việt Nam cũng chỉ phát triển trên nền tảng lý luận Trung y. Do đó, trong suốt thời kỳ này các danh nhân y học Việt Nam cũng chỉ để lại cho hậu thế những trước tác như:

– Châm cứu tiệp hiệu diễn ca của Nguyễn Đại Năng (đời nhà Hồ) trong đó có bổ sung thêm huyệt Nhũ ảnh, Bôi lam chữa sốt rét; Trực cốt chữa hư lao; Quân dần, Phục nguyên chữa động kinh.
– Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực (1455) với kinh nghiệm chữa sởi và đậu mùa.
– Y học yếu giải tập chú di biên của Chu Doãn Văn (1466) bàn về thuỷ hoả và ngoại cảm.
– Nhãn khoa yếu lược của Lê Đức Vọng (đòi Lê) bàn về phép chữa các chứng đau mắt, đặc biệt là đau mắt hột và lông quặm.
– Bảo sinh diên thọ toản yếu của Đào Công Chính (1676) bàn về các phương pháp vệ sinh the chất và tâm thần.
– Tạ Thị chuẩn đích y ước của Tạ Chất Phác (đòi Lê) bàn về cách sử dụng các phương thuốc chữa bệnh Nội – Nhi – Sản.

Đặc biệt dưới thời nhà Trần, trong lúc triều đình và giới quan lại quyền quý sính dùng thuốc Bắc thì một thầy thuốc là Tuệ Tĩnh với tinh thần độc lập tự chủ đã đề xướng lên quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” qua tác phẩm Nam dược thần hiệu.

Tuy nhiên, phải đến thời Hậu Lê, thì toàn bộ những lý luận, học thuật của Trung Quốc và Việt Nam mới được tổng kết ở mức độ uyên thâm nhất qua tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm lĩnh của Lê Hữu Trác (1720 – 1791).

Trong các triều đại trước, nhà cầm quyền chỉ quan tâm đến việc phục vụ sức khoẻ cho vua, quan và quân đội, còn việc chăm lo sức khoẻ của nhân dân lao động thì mặc cho tư nhân hoặc các tổ chức tôn giáo phụ trách. Chỉ đến thời nhà Hồ (1400 — 1406), Hồ Hán Thương mới lập Quảng Tế Thự để chữa bệnh cho dân và giao cho thầy thuốc Nguyễn Đại Năng phụ trách.

Đặc biệt, dưới thời nhà Lê (1261) ngoài việc lập ra Y học huấn khoa để đào tạo thầy thuốc, chính quyền còn ban hành bộ luật Hồng Đức với những qui định về Y đức (điều 541), về quản lý vệ sinh thực phẩm (điều 420) và công tác Pháp y trong bộ sách “Nhân thân kiếm tra nghiệm pháp”.

3. Thời Lê Mạc – thời Tây Sơn (1428 – 1802)

Ngoài tác phẩm kinh điển vĩ đại của Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác còn có thêm:

– Nam Dược của Nguyễn Hoành (Tây Sơn) giới thiệu 500 dược thảo và 130 dược liệu từ khoáng vật và động vật.

– Liệu dịch phương pháp toàn tập viết về bệnh truyền nhiễm; Hô Nhi phương pháp tổng lục viết về Nhi khoa và Lý Am phương pháp thông lục viết về Phụ khoa của Nguyễn Gia Phan (1784 – 1817).

Cũng trong giai đoạn này Việt Nam, mà cụ thể là xứ Đàng Trong đã có giao lưu kinh tế với các nước trong vùng Đông Nam Á và qua đó chúng ta đã trao đổi Thổ nhân sâm, Ngưu tất, Phục linh, Xuyên sơn giáp, Quy bản, Thuyền thoái để nhập Trầm hương, Kỳ nam, Sừng tê giác.

III. THỜI CẬN ĐẠI (THẾ kỷ XVII – thế kỷ XX SAU CN)

1. Thời Nguyễn (1802 – 1884)

Quản lý y tế về mặt nhà nước không có gì khác so với thời Lê, về mặt học thuật của y gia Việt Nam vẫn tiếp tục công việc biên tập, trước tác, trong đó có học tập ít nhiều kinh nghiệm của y gia Trung Quốc, cụ thể:
– Xuân Đình y án kinh trị chủ chứng chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp.
– Thạch nha kính bàn về phép xem lưỡi của Dương Khải.

2. Thời Pháp thuộc (1884 – 1945)

Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ XX, khi mà triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước HARMAND (25/08/1883) biến Việt Nam thành một nước thuộc địa.

Từ năm 1894 – 1906, các Ty lương y đều lần lượt bị giải tán để thay thế bằng bệnh viện hoặc bệnh xá dưới quyền lãnh đạo của thanh tra y tế Đông Dương.

Năm 1920, nhà cầm quyền Pháp hạn chế số ngưòi hành nghề Đông y ở Nam bộ không được quá 500 người.

Năm 1943 lại ký nghị định bổ sung nhằm hạn chế hành nghề của giới Đông y bằng cách không cho sử dụng những dược liệu có hoạt tính mạnh như Phụ tử, Ba đậu chế…

Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hội Y học Trung kỳ (thành lập 14/09/1936) đã mở lớp huấn luyện đào tạo lương y, cùng với Hội Việt Nam Y Dược học ở Bắc kỳ và Hội Y học ở Nam kỳ hợp lực đoàn kết y giới Việt Nam để chấn hưng y học cổ truyền dân tộc và đấu tranh chống chủ trương đàn áp y học cổ truyền của thực dân Pháp.

Trong giai đoạn này, ngoài những tác phẩm y học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như:
– Vệ sinh yếu chỉ (1901) của Bùi Văn Trung ở Nam Định.
– Bí truyền tập yếu (1906) của Lê Tư Thúy ở Hà Nam.
– Y thư lược sao (1906) của Vũ Đình Phu.
– Tứ duy tập (1910) của Đỗ Thế” Hồ.
– Trung Việt Dược tính hợp biên gồm 1500 vị thuốc của Đinh Nho Chấn.

Còn có những tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ:
– Việt Nam Dược học của Phó Đức Thành.
– Nam Dược bộ của Nguyễn An Cư.
– Y học tùng thư của Nguyễn An Nhân.
Đã góp phần phổ cập và bảo tồn nền y dược cổ truyền trong nhân dân.

3. Thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay (1945 – nay)

Cách mạng bùng lên, rồi trường kỳ kháng chiến. Ban nghiên cứu Đông y dược được thành lập ở các Bộ, Sở y tế thuộc Liên khu đã góp phần giải quyết thương tật cho bộ đội và bệnh tật của nhân dân.

Kháng chiến thành công, dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 12/04/1956 Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Đông y trong Vụ Chữa bệnh để chuyên trách nghiên cứu về Đông y. Ngày 03/06/1957, Hội Đông y Việt Nam được thành lập với mục đích đoàn kết các người hành nghề và nghiên cứu Đông y – Đông dược. Ngày 17/06/1957 Viện Nghiên cứu Đông y được thành lập.

Hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chủ tịch là người quan tâm đến vấn đề kết hợp y học hiện đại (YHHĐ) và y học cổ truyền (YHCT) dân tộc để xây dựng nền y học Việt Nam. Trong bức thư gửi cho Hội nghị Ngành Y tế ngày 27/02/1955, Người viết: “Trong những năm bị nô lệ thì y học của ta cũng như các ngành khác bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân ta. Y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học dân tộc và đại chúng”.

Cũng trong thư Người lại chỉ rõ: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960, lần thứ IV năm 1976, lần thứ V năm 1982 đã vạch ra:

– Kết hợp giữa YHHĐ và YHCT để xây dựng nền y học Việt Nam căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra nhiều chỉ thị hướng dẫn ngành y tế thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng, đặc biệt là năm 1980 Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã xác định kết hợp YHHĐ và YHCT là nội dung cơ bản để xây dựng nền YHHĐ Việt Nam. Bộ Y tế cũng đã ra nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ.

– Hơn 50 năm kiên trì thực hiện đưòng lối của Đảng và Nhà nước, ngành y tế đã đạt được nhiều thành tích xây dựng nền y học Việt Nam kết hợp YHHĐ và YHCT của dân tộc trên nhiều mặt: Quan điểm xây dựng ngành, đào tạo cán bộ, nghiên cứu y học về chữa bệnh và thuốc, biên soạn các tài liệu pho cập và chuyên sâu về YHCT dân tộc.

Nghị quyết Đại hội Đảng VII (1991) “kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền từng bước hiện đại hoá y học cổ truyền, giữ gìn bản sắc y học cổ truyền. Hiện nay Hội nghị Trung ương 4 khoá 7 có riêng nghị quyết về y học cổ truyền: “Triển khai mạnh mẽ việc nghiên cứu, ứng dụng và hiện đại hoá y học cổ truyền dân tộc kết hợp với Y học hiện đại, phát triển nuôi trồng cây con làm thuốc, trang bị thêm phương tiện cho việc khám chữa bệnh và sản xuất thuốc y học cổ truyền dân tộc. Khẩn trương đào tạo đội ngũ cán bộ và cán bộ đầu đàn y học dân tộc. Tăng thêm đầu tư và nâng cấp các cơ sở y học dân tộc” kết hợp hai nền y học đã trở thành phương châm của ngành y tế. Về tổ chức của Bộ y tế có Vụ y học cổ truyền, có viện y học dân tộc, có 2 viện nghiên cứu dược học dân tộc ở thủ đô Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh có viện y học dân tộc tỉnh, trong các viện đa khoa tỉnh có khoa y học dân tộc, trong các bệnh viện huyện, trạm y tế xã cũng đều có bộ phận y học cổ truyền.

Trong quân đội có viện y học dân tộc quân đội, Học viện Quân y có Bộ môn y học dân tộc, cục quân y có phòng y học dân tộc, các bệnh viện loại A đa khoa, loại B, các quân khu, quân đoàn, quân chủng đều có bộ phận y học dân tộc.

Về tổ chức quần chúng có hội y học cổ truyền, Việt Nam có hội châm cứu Trung ương được thành lập ở hầu khắp trên 64 tỉnh và thành phố thị xã; hiện đã trở thành tổ chức chuyên môn rộng khắp từ trung ương đến các cơ sở.

Nghị quyết 46 của Bộ chính trị ngày 23-2-2005 cũng nhấn mạnh: "Đẩy mạnh việc nghiên cứu thừa kế bảo tồn và phát triển y dược học cổ truyền thành một chuyên ngành khoa học".

Tại các tuyến Trung ương kết hợp chặt chẽ trong chẩn đoán: chẩn đoán bệnh dựa trên thành tựu YHHĐ kết hợp với y lý cổ truyền. Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh, tiêu chuẩn đánh giá dựa trên y học hiện đại kết hợp với chẩn trị y học cổ truyền. Về điều trị tuỳ theo tình trạng của bệnh nhân và khả năng đảm bảo thuốc theo từng tuyến có thể áp dụng cổ phương, nghiệm phương hay đối pháp lập phương, có thể dùng thuốc, dùng châm xoa bấm hoặc thuốc châm xoa bấm kết hợp. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước phương Tây. Hoà nhập với tổ chức y tế thế giới (OMS), tổ chức đã và đang kêu gọi các nước phát triển y học cổ truyền góp phần đưa y học cổ truyền dân tộc vào chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu của cộng đồng, đóng góp tích cực trong dự phòng và bảo vệ sức khoẻ nhân dân.

Trên cơ sở khoa học hiện đại kết hợp với y học phương Đông mà thừa kế chỉnh lý nâng cao phát huy và phát triển hệ thống lý luận y học cổ truyền dân tộc Việt Nam.

Kết hợp YHHĐ với YHCT trên các mặt: phòng bệnh, chữa bệnh và sản xuất thuốc đào tạo cán bộ và nghiên cứu khoa học.

Tiến tới xây dựng một nền y học Việt nam xã hội chủ nghĩa có đầy đủ tính chất; khoa học, dân tộc và đại chúng.