Ngải cứu

Gửi lúc 16:42' 03/06/2022

Tên gọi khác: Thuốc cứu, Ngải diệp, Nhả ngải (Tày), cỏ Linh ly (Thái), Quá sú (H’Mông), Ngỏi (Dao).

Tên khoa học: Artemisia vulgaris L.

Họ: Cúc (Asteraceae).

Ngải cứu hay còn gọi thuốc cứu, ngải diệp, nhả ngải (Tày), quá sú (H’mông), co linh li (Thái)

BỘ PHẬN DÙNG

Phần trên mặt đất thu hái khi cây có hoa, dùng tươi hay phơi khô trong râm. Nếu tán nhỏ rồi rây lấy phần lông trắng thì được ngải nhung.

MÔ TẢ CÂY

Cây thảo, sống lâu năm, cao 0,40-1m. Thân cành mọc sum sê, có rãnh và lông nhỏ. Lá mọc so le, chẻ lông chim, phiến men theo cuống đến tận gốc, dính vào thân như có bẹ, các thùy hình mác hẹp, đầu nhọn, mặt trên màu xanh lục sẫm, nhẵn hoặc có ít lông, mặt dưới phủ đầy lông nhung màu trắng; những lá ở ngọn có hoa không chẻ.

Cụm hoa mọc ở ngọn thân và đầu cành thành chùm kép mang nhiều đầu nhỏ, màu vàng lục nhạt; tổng bao gồm những lá bắc nguyên giống như những vảy có lông; đầu mọc chúc xuống cùng phía, hình trứng cụt, mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính trên cùng một cụm hoặc ở những cụm khác nhau; thường hoa cái chiếm nhiều hơn; hoa không có mào lông; tràng hoa cái có ống mảnh, cụt hoặc có 2 răng ở đầu, tràng hoa lưỡng tính hình phễu, có 5 thùy uống cong ra phía ngoài; nhị 5.

Quả bế, thuôn nhỏ, không có túm lông.

Toàn cây có mùi thơm hắc.

Mùa hoa quả: tháng 10-12.

PHÂN BỔ

Ngải cứu có nguồn gốc từ vùng ôn đới ấm châu Âu hoặc châu Á, hiện nay cây được trồng và trở nên hoang dại hóa ở vùng nhiệt đới Nam Á, Đông – Nam Á và Ấn Độ, Pakistan, Srilanca, Bangladesh, Lào, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc …Ở Việt Nam, cây được trồng từ lâu đời trong nhân dân từ nam đến bắc. Ở độ cao từ khoảng 800m trở lên, có cây ngải dại mọc tự nhiên rất nhiều ở tỉnh Lào Cai( Sa Pa, Bắc Hà, Bát Xát, Mường Khương, Than Uyên); Lai Châu ( Phong Thổ, Sìn Hồ, Tuần Giáo, Tủa Chùa); Yên Bái (Mù Cang Chải); Cao Bằng (Trùng Khánh, Bảo Lạc); Lạng Sơn (Vùng Mẫu Sơn); Hòa Bình (Mai Châu) và Hà Giang…chính ngải dại nguồn dược liệu được khai thác thường xuyên, mỗi năm phải đến 1000 tấn để sản xuất thuốc. Còn Ngải cứu trồng chỉ được sử dụng tại chỗ, trong phạm vi nhân dân.

Ngải cứu là cây ưa ẩm, có thể hơi chịu bóng, thường được trồng phân tán trong các vườn gia đình, hay các vườn thuốc của các cơ sở y học dân tộc. Cây mọc thành từng khóm, nếu không bị thu hái, tỉa thưa sẽ nhanh chóng bò lan tạo thành đám lớn khó phân biệt giữa các cá thể. Cây sinh trưởng mạnh trong mùa xuân - hè; về mùa đông, phần thân cành trên mặt đất có hiện tượng tàn lụi một phần. Ngải cứu ra hoa quả nhiều hàng năm, song hạt không được sử dụng để gieo trồng.

THÀNH PHẦN HÓA HỌC

-   Toàn cây Ngải cứu chứa tinh dầu có hàm lượng 0,20 – 0,34%. Thành phần chủ yếu của tinh dầu là các monoterpen và sesquiterpen. Gồm 1,8‑cineol, camphor, terpinen 4‑O‑l, β‑pinen, (–)‑borneol, mycren và vulgrin (là những thành phần ít thay đổi) còn thuyon (α hoặc ) thường có mặt với hàm lượng thấp hoặc đôi khi không có (PROSEA – 1999). Ngoài ra còn dehydromatricaria ester, tetradecatrilin, tricosanol, aracholalcol.
-   Các flavonoid hầu hết là 3-0- flavonol luterosid, một triterpene là fermenol. Đáng chú ý là hợp chất sesquiterpenlacton rất phổ biến trong chi artemisia, nhưng hiếm thấy trong Ngải cứu. Người ta mới phát hiện một chất là psilostachyin trong một mẫu Ngải cứu ở Nam Tư (cũ).

-   Trong Ngải cứu Việt Nam, có nhiều chất màu indigo – base, gần 50 hợp chất đã phân tích và xác định có trong lá chủ yếu là β caryophylen 24% và β cubedene 12% ( PROSEA -1999).

TÁC DỤNG DƯỢC LÝ

-   Theo tài liệu nước ngoài các chất herniarin và umbelliferon tồn tại trong than, lá ngải chân vịt có tác dụng an thần, lợi mật, kháng khuẩn, diệt giun sán, cầm máu. Chất herniarin còn có tác dụng bảo vệ gan để điều trị viêm gan. Chất lactiflorenol trong tinh dầu có tác dụng bình suyễn, kháng khuẩn.
-   Theo kinh nghiệm dân gian, Ngải cứu được dùng chữa bế kinh, đau bụng kinh,  kinh nguyệt không đều, đại tiểu tiện ra máu, ho, vết thương dồn dập.

-   Tại Châu âu Ngải cứu được sử dụng kích thích tiết dịch dạ dày ở bệnh nhân chán ăn, chống đầy hơi, chướng bụng, đau bụng, tiêu chảy, táo bón, chuột rút, nhiễm giun sán, động kinh, nôn, các vấn đề về kinh nguyệt, kinh nguyệt không đều.

CÔNG DỤNG

Dùng sống hoặc chế biến như sau:

-   Ngải diệp sao: Dùng Ngải nhỏ, sao lá ngải cho khô, hơi vàng.

-   Ngải diệp sao cháy: Lấy lá Ngải cho vào nồi, sao đến khi có màu đen, vẩy ít nước để trừ hỏa độc.

-   Ngải diệp chích mật: Ngải cứu:  10kg, Mật ong: 2kg; Đem mật ong pha loãng đun sôi, cho lá ngải vào đảo đều cho đến khi khô vàng, sờ không dính tay là được.

-   Ngải diệp chích giấm: Ngải cứu : 10kg, Giấm :  1.2kg; Trộn đều lá ngải với giấm để 30 phút.Sao đến khô khi dược liệu có màu đen

-   Ngải diệp chích rượu: Ngải cứu:  10kg, Rượu:  1.5 – 2kg; Trộn đều sao cho đến khô đen hoặc sao lá ngải cho đen rồi phun rượu vào, vẩy ít nước để trừ hỏa độc.

-   Ngải diệp chưng với rượu, giấm, gừng, muối: Ngải cứu: 10kg, Rượu, giấm: mỗi thứ 1kg, Gừng tươi: 20kg, Muối ăn: 80kg

Các bài thuốc đông y có vị thuốc ngải cứu

Bài 1: Chữa đại tiện ra máu

Ngải cứu, Hạn liên thảo, Lá Diễn (Dicliptera chinensis (L.)Ness) mỗi vị 60g, Xa tiền thảo 30g. Giã nhỏ, thêm nước gạo 90 mL,gạn lấy nước, thêm đường trắng uống.Ngày 1 lần, trong 2-3 ngày.

Bài 2: Chữa vết thương tụ máu

Ngải cứu 250g, Thủy trạch lan 120g, giã nát dung rượu sao nóng, gạn lấy 60ml nước uống, bã đắp ngoài.