Tổng quan về viêm đa dây thần kinh

Gửi lúc 16:56' 02/05/2013

Bệnh thần kinh ngoại vi (peripheral neuropathy) là một khái niệm rộng, bao gồm rất nhiều loại tổn thương khác nhau của hệ thần kinh ngoại vi với những cơ chế bệnh sinh rất đa dạng tùy theo từng loại bệnh và nhóm bệnh cụ thể.

Dựa theo kiểu hình phân bố triệu chứng tổn thương của hệ thần kinh ngoại vi, có thể phân ra thành các nhóm bệnh sau: bệnh đa dây thần kinh, bệnh đa rễ dây thần kinh, bệnh một dây thần kinh, bệnh nhiều dây thần kinh, bệnh rễ thần kinh, bệnh neuron vận động hay cảm giác. Cách phân loại này giúp định hướng nguyên nhân của bệnh thần kinh ngoại vi.

Bệnh đa dây thần kinh (polyneuropathy) có tổn thương và biểu hiện lâm sàng đối xứng cả hai bên là bệnh đa dây thần kinh do thiếu vitamin B1, bệnh đa dây thần kinh tiểu đường, bệnh đa dây thần kinh do ngộ độc thuốc kháng lao hay các kim loại nặng

Đặc điểm phân bố ngọn chi nặng hơn gốc chi, có liờn quan mật thiết với chiều dài của sợi thần kinh (sợi càng dài càng bị sớm hơn và nặng hơn). Trong bệnh đa dây thần kinh sợi trục có hiện tượng chết lui trở lại bắt đầu từ ngoại vi của các sợi thần kinh, do đó các sợi trục càng dài thì càng dễ bị tổn thương. Trong bệnh thần kinh mất myelin, tổn thương mất myelin từng đoạn được phân bố rải rác một cách ngẫu nhiên dọc theo chiều dài của sợi thần kinh, do đó các sợi càng dài thì càng tăng xác suất bị tổn thương.

Triệu chứng

- Rối loạn vận động, cảm giác và rối loạn phản xạ đối xứng, phân bố ưu thế ngọn chi là triệu chứng điển hình hay gặp nhất trong bệnh đa dây thần kinh.
Triệu chứng rối loạn vận động dưới hình thức yếu và teo cơ xuất hiện đầu tiên ở các ngọn chi, sau đó lan dần về phía gốc chi.
- Vị trí các chi tổn thương (hai chân hoặc tứ chi), các chi có thể bị tổn thương đồng thời nhưng cũng có thể bị tuần tự từ chi này sang chi khác.
- Khu trú của liệt thay đổi tuỳ theo nguyên nhân (ví dụ: viêm đa dây thần kinh do ngộ độc chì thì liệt khu trú ở chi trên, viêm đa dây thần kinh do ngộ độc rượu thì liệt khu trú ở chi dưới).
- Các dây thần kinh sọ não ít bị thương tổn.
+ Rối loạn cảm giác cũng phân bố tương tự: nặng và rõ nét nhất ở ngọn chi nên được gọi một cách hình tượng là mất cảm giác hay giảm cảm giác theo kiểu đi găng, giảm cảm giác nông và sâu (đặc biệt cảm giác rung).
Ngoài ra còn xuất hiện các triệu chứng như: đau ở ngọn chi, dị cảm (tê buồn, kiến bò, tê cóng), đau khi ấn vào các thân dây thần kinh hoặc ấn vào bắp cơ.
+ Rối loạn phản xạ: mất phản xạ gân xương cũng có kiểu phân bố tương tự, mất phản xạ gót trước khi mất phản xạ gối, xuất hiện ở hai chi dưới trước hai chi trên; phản xạ da bụng, và phản xạ da bìu ít bị thay đổi.
+ Rối loạn thực vật- dinh dưỡng: loét điểm tỳ, loét thủng, phù, đôi khi có teo cơ sớm, phù (chỉ gặp trong thể nặng)
+ Không có rối loạn cơ vòng.

Nguyên nhân

* Do rối loạn chuyển hoá và dinh dưỡng
- Điển hình là viêm đa dây thần kinh do thiếu vitamin B1 (Beri - beri).
- Do đái tháo đường: 20 - 40% bệnh nhân đái tháo đường có biểu hiện tổn thương thần kinh và khoảng 10% số bệnh nhân chỉ phát hiện ra đái tháo đường sau khi đã thấy có biểu hiện tổn thương thần kinh.
Biểu hiện lâm sàng của tổn thương dây thần kinh do đái tháo đường rất đa dạng, thể viêm đa dây thần kinh là thể hay gặp nhất, thể đối xứng nặng ở ngọn chi, thể không đối xứng nặng ở gốc chi (viêm đơn dây thần kinh), thể tăng cảm, liệt dây thần kinh sọ não do đái tháo đường...
- Do tăng urê huyết, thường gặp ở bệnh nhân suy thận (25% số bệnh nhân thẩm phân máu).
- Do porphyrin.
- Do xơ gan.
- Do bệnh thoái hóa dạng tinh bột (amyloidose) .
- Do rối loan hấp thu vitamin B12.
* Do các bệnh nhiễm khuẩn
Triệu chứng của viêm đa dây kết hợp với triệu chứng toàn thân của bệnh: quai bị, bạch hầu, thương hàn, sốt phát ban...
* Do nhiễm độc
Rượu, asen, chì, phốt pho hữu cơ...
* Do dùng thuốc
Barbituric, sulfamid, rimifon, phenytoin, nitrofurantoin, phenylbutazon...
Trong thực tế các nguyên nhân nói trên thường hay phối hợp với nhau và gây ra tổn thương các dây thần kinh ngoại vi. Có một số trường hợp do bị lạnh, nhất là khi nhiệt độ dưới cũng là nguyên nhân quyết định gây bệnh và thường làm bệnh nặng lên thêm.

St